Tổng số dân của Việt Nam trên 96 triệu người

Sau 10 năm, kể từ năm 2009 đến nay, quy mô dân số Việt Nam tăng thêm 10,4 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009-2019 là 1,14%/năm, giảm nhẹ so với giai đoạn 10 năm trước (1,18%/năm). Tỷ số giới tính là 99,1 nam/100 nữ. 
Công bố tổng điều tra dân số
Công bố tổng điều tra dân số

Sáng 11-7, tại Hà Nội, Chính phủ đã tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc công bố kết quả sơ bộ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.

Mật độ dân số cả nước là 290 người/ km2, TPHCM là 4.363 người/ km2­

Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 thực hiện từ ngày 1-4-2019 đến ngày 25-4-2019.

Kết quả tổng điều tra cho thấy, vào thời điểm 0 giờ ngày 1-4-2019, tổng số dân của Việt Nam là 96.208.984 người. Trong đó dân số nam là 47.881.061 người, chiếm 49,8% và dân số nữ là 48.327.923 người, chiếm 50,2%. Với kết quả này,  Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, sau Indonesia và Philippines. So với năm 2009, vị trí xếp hạng về quy mô dân số của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á không thay đổi và giảm 2 bậc so với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Sau 10 năm, kể từ năm 2009 đến nay, quy mô dân số Việt Nam tăng thêm 10,4 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009-2019 là 1,14%/năm, giảm nhẹ so với giai đoạn 10 năm trước (1,18%/năm). Tỷ số giới tính là 99,1 nam/100 nữ, trong đó khu vực thành thị là 96,5 nam/100 nữ,  khu vực nông thôn là 100,5 nam/100 nữ.  Tỷ số giới tính tăng liên tục trong những năm qua nhưng luôn thấp hơn 100 trên phạm vi toàn quốc.

Kết quả tổng điều tra năm 2019 cũng cho thấy, Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số cao so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Năm 2019, mật độ dân số của Việt Nam là 290 người/km2, tăng 31 người/km2 so với năm 2009. Hà Nội và TPHCM là 2 nơi có mật độ dân số đông nhất cả nước, tương ứng với  2.398 người/km2 ­ và 4.363 người/ km2­.

Phân bố dân cư giữa các vùng kinh tế-xã hội có sự khác biệt đáng kể. Vùng đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung đông dân cư nhất cả nước với 2,5 triệu người, chiếm gần 23,4%. Tiếp đến là vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung với 20,2 triệu người, chiếm 21%. Tây Nguyên là nơi có ít dân cư nhất với 5,8 triệu người, chiếm 6,1% dân số cả nước.

Trong 10 năm qua, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và rộng khắp tại nhiều địa phương đã tác động làm tăng gia tăng dân số ở thành thị với trên 33 triệu người, chiếm 34,4% dân số cả nước, dân số khu vực nông thôn là trên 63 triệu người, chiếm 65,6%. Từ năm 2009 đến nay, tỷ trọng dân số khu vực thành thị tăng 4,8 điểm phần trăm. Toàn quốc có trên 82 triệu người dân tộc Kinh, chiếm 85,3% và trên 14 triệu người dân tộc khác, chiếm 14,7% dân số.

Trên phạm vi cả nước, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn là 77,5%. Trong đó dân số đang có vợ chồng chiếm 29,2%; dân số có tình trạng ly hôn hoặc ly thân chiếm 2,1%; dân số góa vợ/chồng chiếm 6,2%. Nữ giới có xu hướng kết hôn sớm và phổ biển hơn nam: tỷ lệ dân số nam từ 15 tuổi trở lên đã từng kết hôn thấp hơn so với nữ, tương ứng là 73,4% và 81,5%.

Toàn quốc có khoảng 91,7% dân số trong độ tuổi đi học phổ thông hiện đang đi học. Tỷ lệ này của nữ cao hơn so với nam. Trong vòng 20 năm qua, tỷ trọng dân số trong độ tuổi đi học phổ thông hiện không đi học (chưa bao giờ đi học hoặc đã thôi học) giảm đáng kể, từ 20,9% năm 1999 xuống còn 16,4% năm 2009 và còn 8,3% năm 2019. Cả nước có 95,8% người dân từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết.

Cư dân thành thị có diện tích nhà ở bình quân đầu người cao hơn cư dân nông thôn

Cũng theo kết quả tổng điều tra, tính đến 0 giờ ngày 1-4-2019, cả nước có 26.870.079 hộ dân cư, tăng 4,4 triệu hộ so với thời điểm 0 giờ ngày 1-4-2009. Tỷ lệ tăng số hộ bình quân năm là  1,8%/năm, thấp hơn giai đoạn 10 năm trước.  Đây là giai đoạn có tỷ lệ tăng quy mô hộ thấp nhất trong vòng 40 năm qua.

Bình quân mỗi hộ dân cư có 3,5 người, thấp hơn 0,3 người/hộ so với năm 2009. Ở thành thị bình quân mỗi hộ dân cư có 3,3 người, thấp hơn khu vực nông thôn 0,3 người/hộ. Đông Nam bộ có số người bình quân một hộ thấp nhất cả nước (3,3 người/hộ). Hầu hết hộ dân cư Việt Nam đang sống trong những ngôi nhà kiên cố hoặc bán kiên cố (93,1%). Tỷ lệ này ở thành thị đạt 98,2%, nông thôn là 90,3%. Trong vòng 20 năm qua, kể từ năm 1999, tỷ lệ hộ sống trong nhà ở kiên cố và bán kiên cố đã tăng mạnh, từ 63,2% năm 1999, lên 84,2% năm 2009 và đạt 93,1% năm 2019.

Diện tích nhà ở bình quân đầu người năm 2019 là 23,5 m­/người, cao hơn 6,8 m­/người so với 10 năm trước. Cư dân thành thị có diện tích nhà ở bình quân đầu người cao hơn cư dân nông thôn, tương ứng là 24,9 m­/người và 22,7 m2/người.

Kết quả điều tra cho thấy, trải qua 10 năm, quy mô dân số nước ta tăng với tốc độ chậm hơn so với giai đoạn 10 năm trước. Trình độ dân trí được cải thiện, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết tăng mạnh, hầu hết trẻ em trong độ tuổi đi học phổ thông đang được đến trường, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường giảm mạnh trong thập kỷ qua. Điều kiện nhà ở của các hộ dân cư đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là ở thành thị. Hầu hết các hộ dân đều đã có nhà ở và chủ yếu sống trong nhà kiên cố và bán kiên cố, diện tích nhà ở bình quân đầu người tăng lên đáng kể.

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng, cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 đã thành công tốt đẹp, được công bố vào đúng ngày dân số thế giới. Đây là một trong 3 cuộc tổng điều tra lớn nhất, được tiến hành 10 năm/lần, là nguồn thông tin tin cậy về dân số và nhà ở, phục vụ yêu cầu thông tin của Đảng, Nhà nước ta, phục vụ việc xây dựng chính sách về dân số và nhà ở. Là dữ liệu để Đảng, Nhà nước hoạch định chính sách phát triển trong thời gian tới. Cuộc tổng điều tra lần này nhờ ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) nên hoàn tất nhanh chóng, nhẹ nhàng và chính xác.

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cũng nhấn mạnh, kết quả điều tra dân số và nhà ở lần này phải được phân tích kỹ ở tất cả các mặt. Chúng ta phải tận dụng thời cơ của dân số vàng, nhưng vì Việt Nam đang có tốc độ già hóa nhanh, vì thế phải tránh được bẫy “chưa giàu đã già”.

“Những con số điều tra phải được phân tích kỹ để phục vụ cho việc hoạch định những chính sách trong thời gian tới. Trong đó có chính sách cho những người bị yếu thế. Tương tự là chính sách giải quyết các vấn đề về đô thị hóa, chính sách về nhà ở”, Phó Thủ tướng nói.

Đây là cuộc tổng điều tra đầu tiên đầu tiên ứng dụng CNTT trong tất cả các công đoạn, đặc biệt là công đoạn thu thập thông tin tại địa bàn với hình thức thu thập thông tin chủ yếu điều tra bằng phiếu điện tử trên thiết bị di động, chiếm 99,9% các hộ dân cư. Nhờ thế, công tác xử lý và làm sạch số liệu đã hoàn thành sớm 1 năm so với cuộc tổng điều tra năm 2009.

Tin cùng chuyên mục