Tổ chức chính quyền đặc khu: Không đồng tình cả 2 phương án, thiết kế phương án 3

Phương án 3 phân định rành mạch giữa nhiệm vụ, quyền hạn tập thể của Ủy ban đặc khu và nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban đặc khu, theo đó Ủy ban đặc khu chủ yếu thảo luận, quyết định các vấn đề trình Hội đồng đặc khu và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng đặc khu.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định phát biểu tại phiên họp
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định phát biểu tại phiên họp

Báo cáo tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) về dự án Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt sáng nay, 11-1, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật (UBPL) Nguyễn Khắc Định cho biết, vấn đề xác định mô hình tổ chức chính quyền địa phương và việc thiết kế các chính sách liên quan tới đất đai tại đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (HCKTĐB - đặc khu) là hai vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau, thu hút sự quan tâm của nhiều đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Về mô hình tổ chức chính quyền địa phương, qua phân tích những ưu điểm và hạn chế của từng phương án, nhiều ý kiến trong Thường trực UBPL đề xuất thiết kế Phương án 3 nhằm kết hợp các ưu điểm, khắc phục các nhược điểm của Phương án 1 và Phương án 2 về tổ chức bộ máy chính quyền đơn vị HCKTĐB.

Theo Phương án 3, chính quyền địa phương ở đơn vị HCKTĐB là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng Nhân dân đơn vị HCKTĐB (gọi tắt là Hội đồng đặc khu) và Ủy ban Nhân dân đơn vị HCKTĐB (gọi tắt là Ủy ban đặc khu) được tổ chức tinh gọn, chỉ quyết định một số vấn đề quan trọng, mang tính định hướng lớn, còn chủ yếu tập trung phân quyền, phân cấp thẩm quyền quản lý, điều hành ở đơn vị HCKTĐB cho Chủ tịch Ủy ban đặc khu.

Cụ thể, Hội đồng đặc khu và Ủy ban đặc khu được tổ chức tinh gọn theo hướng: Hội đồng đặc khu có từ 12 đến 15 đại biểu; tất cả hoặc đa số đại biểu hoạt động chuyên trách; không tổ chức Thường trực Hội đồng đặc khu và các Ban của Hội đồng đặc khu.

Hội đồng đặc khu có cơ cấu, thành phần đại biểu phù hợp với đặc điểm của đơn vị HCKTĐB (bao gồm đại diện cử tri ở các khu hành chính, các chuyên gia về pháp luật, kinh tế, tài chính, đại diện cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn).

Ủy ban đặc khu chỉ bao gồm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch. Chủ tịch Uỷ ban đặc khu do Hội đồng đặc khu bầu theo giới thiệu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn.

Hội đồng đặc khu chỉ quyết định một số vấn đề quan trọng liên quan tới nhân sự chủ chốt, định hướng phát triển, ngân sách đơn vị HCKTĐB, một số vấn đề liên quan trực tiếp tới cộng đồng dân cư địa phương  và tập trung thực hiện chức năng giám sát.

Phương án này cũng phân định rành mạch giữa nhiệm vụ, quyền hạn tập thể của Ủy ban đặc khu và nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban đặc khu, theo đó Ủy ban đặc khu chủ yếu thảo luận, quyết định các vấn đề trình Hội đồng đặc khu và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng đặc khu.

Hầu hết các thẩm quyền về điều hành, quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội tại đơn vị HCKTĐB được tập trung cho Chủ tịch Uỷ ban đặc khu để tăng tính chủ động, linh hoạt (tương tự các nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng Đơn vị HCKTĐB theo Phương án 1 do Chính phủ trình).

Đặc biệt, sẽ bổ sung một số quy định về cơ chế kiểm soát đặc thù của Trung ương đặt tại địa phương để tăng cường kiểm soát hoạt động của chính quyền địa phương tại đơn vị HCKTĐB.

Các cơ chế giám sát, kiểm soát khác (giám sát của Quốc hội, Hội đồng Nhân dân tỉnh, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; kiểm tra của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên) vẫn được thực hiện theo các quy định của pháp luật hiện hành.

Tin cùng chuyên mục