Tín dụng xanh cho phát triển bền vững

Nguồn vốn tài trợ cho các dự án phát triển bền vững từ các định chế tài chính, các quỹ và các nhà đầu tư quốc tế nước ngoài hiện khá lớn. Nếu tận dụng được nguồn vốn này, doanh nghiệp Việt vừa giải được bài toán thiếu vốn vừa có cơ hội phát triển bền vững.
Hệ thống ngân hàng của Việt Nam đang đóng vai trò rất lớn trong quá trình chuyển đổi xanh. Ảnh: HOÀNG HÙNG
Hệ thống ngân hàng của Việt Nam đang đóng vai trò rất lớn trong quá trình chuyển đổi xanh. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Dư nợ cấp tín dụng xanh tăng 25%/năm

 Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB), giá trị đầu tư thêm vào các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ tác động bởi biến đổi khí hậu của Việt Nam từ nay đến năm 2040 lên đến 6,8% GDP/năm, tương đương khoảng 368 tỷ USD. Các chuyên gia WB cũng cho rằng, để thực hiện được mục tiêu mà Việt Nam đã cam kết tại COP26 (Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc năm 2021) là phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 thì tín dụng cho các dự án gắn với bảo vệ môi trường (tín dụng xanh) có ý nghĩa rất quan trọng. 

Hiện hệ thống ngân hàng của Việt Nam đang đóng vai trò rất lớn trong quá trình chuyển đổi xanh. Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tại báo cáo đánh giá tiến bộ quốc gia giai đoạn 2020-2021 của Mạng lưới tài chính và ngân hàng bền vững, Việt Nam được xếp vào nhóm thứ 2 các quốc gia có sự tiến bộ đáng kể trong tiến trình phát triển bền vững.

Bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), cho biết, thời gian qua, ngành ngân hàng tiên phong trong việc huy động vốn và tài trợ cho các dự án định hướng tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. Trong giai đoạn 2017-2021, dư nợ cấp tín dụng xanh có tăng trưởng bình quân đạt hơn 25%/năm. Theo cập nhật mới nhất, đến ngày 31-10- 2022, dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh đạt hơn 477.500 tỷ đồng (chiếm 4,4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tăng 7,78% so với năm 2021), chủ yếu tập trung vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (47%), nông nghiệp xanh (32%). Dư nợ đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 21% dư nợ cho vay của nền kinh tế, với hơn 1,1 triệu món vay. 

Các tổ chức tín dụng trong nước cũng rất chủ động tìm kiếm cơ hội hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế để phát triển và triển khai cho vay tín dụng xanh.

Cụ thể, các dự án chuyển hóa carbon thấp trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng được các ngân hàng BIDV, ANZ triển khai cho vay với nguồn vốn do Chính phủ Đan Mạch tài trợ theo Chương trình hỗ trợ đầu tư xanh. Ngoài ra, nhiều ngân hàng như Vietcombank, Vietinbank, SHB, HDBank… cũng đã cho vay dự án phát triển năng lượng tái tạo từ nguồn vốn của WB.

Cuối tháng 11-2022, VPBank được giải ngân khoản vay từ một tổ chức tài chính nước ngoài trị giá 150 triệu USD (tương đương gần 3.700 tỷ đồng) với kỳ hạn 5 năm, nhằm có thêm nguồn lực cho vay các dự án trong lĩnh vực môi trường và chống biến đổi khí hậu tại Việt Nam…

Tín dụng xanh cho phát triển bền vững ảnh 1 Doanh nghiệp đang tìm kiếm cơ hội tiếp cận với nguồn vốn tín dụng xanh. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Hoàn thiện khung pháp lý 

 Bên cạnh những kết quả tích cực, NHNN cũng nhìn nhận, tín dụng ngân hàng cho tăng trưởng xanh vẫn đối mặt với không ít khó khăn và tiềm ẩn rủi ro. Trong khi đó, hiện Việt Nam chưa có quy định chung về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các ngành, lĩnh vực để làm căn cứ cho các tổ chức tín dụng xác định cấp tín dụng xanh trong giai đoạn tới. 

Ngoài ra, việc cấp tín dụng xanh đòi hỏi yếu tố kỹ thuật về môi trường chuyên sâu nên cán bộ tín dụng gặp khó khăn trong việc thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng. Việc giám sát và quản lý rủi ro khi cấp tín dụng do thiếu quy định tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường đã gây nhiều khó khăn cho ngân hàng. Tất cả đều tiềm ẩn rủi ro thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng.

BIDV là một trong những ngân hàng tiên phong trong việc cấp tín dụng cho các dự án xanh. Ông Vương Thành Long, Giám đốc Ban khách hàng doanh nghiệp nước ngoài của BIDV, cho biết, ngân hàng đã tiếp cận tài trợ các dự án xanh từ rất sớm, với vốn cam kết khoảng 2,6 tỷ USD trong 6 năm qua, đến nay đã giải ngân hơn 2 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện nhiều ngân hàng thương mại trong nước vẫn đang chờ đợi hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan liên quan của chính phủ để hoàn thiện quy định và quy trình cho vay đối với các dự án kinh tế xanh. 

“Nói như vậy không có nghĩa là ngân hàng dừng cấp tín dụng xanh để chờ. Hiện Việt Nam đã có hướng dẫn về 12 ngành, lĩnh vực xanh, nhưng để có thể kết nối tốt hơn nữa với các nguồn vốn đa dạng cho doanh nghiệp, nhà đầu tư tại Việt Nam thì các ngân hàng cần thông tin rõ hơn về danh mục xanh với các điều kiện, tiêu chuẩn một cách rõ ràng; để khi cấp tín dụng thì nhà đầu tư phải được hưởng lợi hơn từ các chính sách của chính phủ và quy trình cấp tín dụng được ưu việt hơn. Cùng với đó, ngân hàng cũng có thể dành nguồn vốn nhiều hơn cho các dự án trong lĩnh vực này”, ông Vương Thành Long chia sẻ.

Việc ban hành các điều kiện, tiêu chuẩn rõ ràng cũng sẽ giúp các ngân hàng thương mại huy động nguồn vốn ưu đãi từ các nước. Hiện nay, chính phủ nhiều nước phát triển đã cam kết hỗ trợ nguồn lực cho các dự án tăng trưởng xanh, tăng trưởng bền vững thông qua các quỹ hoặc tổ chức  tín dụng. Tuy nhiên, việc thiếu quy định cụ thể đang khiến các đơn vị khó huy động nguồn vốn đầy tiềm năng này…

Để khắc phục những vướng mắc, bà Phạm Thị Thanh Tùng cho biết, NHNN đang tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về hoạt động tín dụng xanh, ban hành thông tư hướng dẫn các tổ chức tín dụng quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng để đáp ứng các yêu cầu của Luật Bảo vệ môi trường, hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành ngân hàng để phát triển bền vững. 

Bà Phạm Thị Thanh Tùng thông tin, hiện Bộ TN-MT đang lấy ý kiến các bộ, ngành liên quan nhằm hoàn thiện dự thảo về ban hành quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh để trình Thủ tướng Chính phủ, từ đó có thể thực hiện trong năm 2023. Về phía doanh nghiệp, bà Phạm Thị Thanh Tùng khuyến nghị, cần chủ động thay đổi mô hình sản xuất, kinh doanh để nắm bắt được cơ hội tiếp cận với nguồn vốn tín dụng xanh.


* Ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng Giám đốc Tổ chức xếp hạng tín nhiệm FiinRatings: Huy động vốn từ trái phiếu xanh 

Đầu tư vào các ngành, lĩnh vực xanh, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, công trình xanh, thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn cho vay của các ngân hàng thường là vốn huy động ngắn hạn. Điều này gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong việc cân đối vốn và đảm bảo tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy định. Trong bối cảnh này, xu hướng tăng trưởng xanh của các tổ chức đầu tư quốc tế đang mở ra nhiều cơ hội huy động vốn cho doanh nghiệp Việt Nam. Khi dự án đạt tiêu chí xanh, nhà đầu tư sẽ chấp nhận tài trợ và đầu tư lâu dài, điều mà các ngân hàng thương mại không có khả năng. 


Hiện có nhiều chương trình để huy động vốn trái phiếu xanh quốc tế, như Tiêu chuẩn Trái phiếu khí hậu (CBI), ASEAN… Mỗi chương trình với tiêu chí và chuẩn mực riêng. Trong đó, CBI là chứng nhận đang được sử dụng rộng rãi trên 30 quốc gia. Để huy động vốn trái phiếu xanh quốc tế, doanh nghiệp cần tìm kiếm chương trình phù hợp. Chi phí cho chương trình này không lớn và hiện FiinRatings đang cùng Ngân hàng Phát triển châu Á hỗ trợ doanh nghiệp trong chiến lược huy động vốn. Mặt khác, Chính phủ Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và ban hành tiêu chí xanh với các tiêu chí và chính sách hỗ trợ cụ thể. 

* Bà Stephanie Betant, Giám đốc toàn quốc Khối Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp HSBC Việt Nam: Cần giảm rủi ro

Việt Nam được xếp hạng là điểm đến đầu tư tốt nhất cho năng lượng tái tạo ở khu vực ASEAN nhờ nguồn tài nguyên sẵn có (năng lượng mặt trời, năng lượng gió), nhu cầu về điện tăng và mục tiêu của Chính phủ đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Các lĩnh vực này từ trước đến nay chủ yếu chỉ dựa vào nguồn vốn của các ngân hàng trong nước, nhưng với nhu cầu và mục tiêu lớn sẽ rất cần đến dòng vốn quốc tế, trong đó vai trò của nguồn vốn FDI rất quan trọng. 


Tuy nhiên, để có thể thu hút các nguồn vốn tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn tại Việt Nam, các tổ chức, định chế tài chính nước ngoài vẫn rất quan ngại những rủi ro về giảm giá điện và cắt giảm điện, rủi ro về pháp lý. HSBC cùng các tổ chức tài chính khác đã tích cực thảo luận với Chính phủ Việt Nam và các cơ quan quản lý về việc cần phải thay đổi cũng như hoàn thiện khung pháp lý để tạo một môi trường thuận lợi hơn cho thu hút dòng vốn này. 

Tin cùng chuyên mục