Thêm một bài thơ yêu nước của cụ Nguyễn Đình Chiểu

Bài thơ này được chép trong một tập thơ văn Hán Nôm chép tay nhan đề Thi vận tập thành, được tìm thấy ở xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Người chép là Lê Công Cẩn, do ông Lê Minh Chí (cháu cố của ông Cẩn) giữ, hiện có bản sao được lưu giữ ở Bảo tàng Long An. 

Nhân dịp kỷ niệm 160 năm ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu vào năm 1982, Tổ Văn học cổ cận đại, Ban Văn học, Viện Khoa học xã hội tại TPHCM đã biên soạn một bộ Toàn tập Nguyễn Đình Chiểu, trong đó có quyển Thơ văn yêu nước chống Pháp, giới thiệu một số tác phẩm thơ văn của cụ sáng tác từ khi quân Pháp xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, từ đó đến nay, rải rác vẫn có một số tác phẩm thơ văn của cụ Nguyễn Đình Chiểu được tiếp tục phát hiện. Bài thơ sau đây là một trong số đó.

Bài thơ này được chép trong một tập thơ văn Hán Nôm chép tay nhan đề Thi vận tập thành, được tìm thấy ở xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Người chép là Lê Công Cẩn, do ông Lê Minh Chí (cháu cố của ông Cẩn) giữ, hiện có bản sao được lưu giữ ở Bảo tàng Long An. 

Trong nguyên bản nhan đề bài thơ được chép là Tú tài Chiểu tự thuật thán vân (ảnh), chưa thấy được công bố trên sách - báo chữ quốc ngữ trước nay. Căn cứ vào nội dung và địa điểm phát hiện, có thể xác định bài thơ này được cụ Nguyễn Đình Chiểu sáng tác trong thời gian về sống ở quê vợ tại Cần Giuộc, Long An, sau khi quân Pháp phá vỡ phòng tuyến Đại Đồn tháng 2-1861.

Sau đây là phần phiên âm và chú thích bài thơ. Nhan đề do chúng tôi tạm đặt. 

       Tự thán

Đã đành trôi nổi tấm thân bèo,
Mình giữ lòng mình dám nói leo.
Đánh xé đang khi cò mổ vọp (1),
Sụt trồi đâu dám ốc mang rêu.
Cửa rồng muôn dặm mây còn nhóm (2),
Bến Nghé năm canh quạ hãy kêu (3).
Chén rượu xóm giềng cho cũng uổng,
No say xin để mặt ăn heo.

(1) Đánh xé… mổ vọp: Lấy điển Bạng duật tương trì (Trai cò giữ nhau), nói về tình trạng giằng co giữa quân Pháp và các lực lượng vũ trang Việt Nam trên chiến trường Nam kỳ trước Hòa ước Nhâm Tuất 5-6-1862. 

(2) Cửa rồng… mây còn nhóm: Lấy ý câu trong bài Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng đài của Lý Bạch - “Tổng vị phù vân năng tế nhật/ Trường An bất kiến sử nhân sầu” (Chỉ vì mây nổi che vầng nhật/ Chẳng thấy Trường An não dạ người). Ý nói mòn mỏi chờ triều đình có hành động chống Pháp tích cực.

(3) Bến Nghé… quạ hãy kêu: Lấy ý câu trong bài Ô dạ đề của Bạch Cư Dị - “Đề lịch cơ hầu yết, Phi đê đống sí thùy. Họa đường anh vũ điểu, Lãnh noãn bất tương tri” (Giọng khàn run cổ đói, Cánh cóng thấp đường bay, Yên ấm chim anh vũ, Thềm son vốn chẳng hay). 
Ý nói thời ly loạn, nhân dân càng khốn khổ khác hẳn kẻ giàu sang.

Tin cùng chuyên mục