Lý Thường Kiệt: Khí phách Tuyên ngôn Độc lập

Lịch sử nước ta thế kỷ XI đã xuất hiện một anh tài xuất chúng: Lý Thường Kiệt (1019-1105) - là nhà quân sự-chính trị nổi bật vào thời nhà Lý nước Đại Việt.

LTS: Lịch sử nước ta thế kỷ XI đã xuất hiện một anh tài xuất chúng: Lý Thường Kiệt (1019-1105) - là nhà quân sự-chính trị nổi bật vào thời nhà Lý nước Đại Việt. Ông làm quan qua 3 triều vua (Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông) đánh Nam dẹp Bắc, xây dựng cơ đồ. Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần viết: “Trong quân sự, Lý Thường Kiệt là bậc đại danh tướng, là linh hồn của những chiến công lớn nhất lịch sử nước nhà. Trong chính trị, Lý Thường Kiệt  là đấng đại danh thần, là chỗ dựa tin cậy và vững chắc của nhà Lý. Trong lịch sử văn học, Lý Thường Kiệt là cây đại bút, tác giả của “Nam quốc sơn hà” - áng hùng thi có giá trị thiêng liêng như bản Tuyên ngôn Độc lập lần thứ nhất của nước nhà”.

Sang đất đối phương đánh giặc

Đại Việt sử ký toàn thư, ghi gia phả Lý Thường Kiệt nối đời làm quan, trú ở phường Thái Hòa của thành Thăng Long. Từ nhỏ Lý Thường Kiệt đã tỏ ra người có chí hướng và nghị lực, chăm học tập, rèn luyện cả văn lẫn võ, từng nghiên cứu về binh pháp. Năm 1041, Lý Thường Kiệt còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi tắn được sung làm Hoàng môn chi hậu - chức thái giám theo hầu Lý Thái Tông.

Trong mười hai năm làm nội thị trong triều, danh tiếng của Lý Thường Kiệt ngày càng nổi. Năm 1053, ông được thăng chức Nội thị sảnh đô tri khi mới 35 tuổi. Năm 1054, Thái tử Lý Nhật Tôn kế vị, sử gọi là Lý Thánh Tông. Thánh Tông phong ông chức Bổng hành quân hiệu úy, thường ngày ở cạnh vua, thường can gián. Vì có công lao, ông được thăng làm Kiểm hiệu thái bảo.

Nước ta đánh nhau với quân nước Trung Hoa nhiều lần, từ vua Nam Đế trở về trước, sau này vua Ngô đánh Bạch Đằng, vua Lê Đại Hành đánh trận Lạng Sơn, vua Trần Nhân Tông đánh đuổi Toa Đô, Thoát Hoan. Những trận đánh vẻ vang đó là câu chuyện hãnh diện của nước ta, nhưng đều là giặc đến đất nước, ta bất đắc dĩ buộc phải ứng chiến. Còn việc đường đường chính chính đem quân vào nước người, đánh không ai địch nổi, khi kéo quân về địch không dám đuổi theo, như trận đánh Ung Liêm thì quả thật là đệ nhất võ công, từ đấy người nước Tàu không dám coi thường, thế thì triều Lý được trịch với Tống nhiều lắm.
Sử thần nhà Lê, Ngô Thì Sĩ 
(Sách Sử tiêu án)

Năm 1061, người Mường ở biên giới quấy rối. Lý Thánh Tông sai Lý Thường Kiệt làm Kinh phỏng sứ vào thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An, được toàn quyền hành sự. Ông phủ dụ dân chúng, lấy được lòng người. Tất cả 5 châu 6 huyện, 3 nguồn, 24 động đều quy phục. Tháng 2-1069, ông theo vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành.

Lý Thường Kiệt làm tiên phong đi đầu, truy bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Cuối cùng Chế Củ phải chịu hàng, dâng 3 châu Bố Chánh, Địa Lý, Mai Linh (nay thuộc phận Quảng Bình-Quảng Trị) để được tha về nước.

Năm 1072, Lý Thánh Tông từ trần. Lý Nhân Tông lên nối ngôi khi mới có 7 tuổi. Trong khi ấy, chính quyền phương Bắc luôn nhòm ngó. Chúng xem đây là một cơ hội tốt để tiến hành xâm lược nước ta. Tại ba châu Ung, Khâm, Liêm (thuộc Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay), chúng xây dựng những căn cứ quân sự và hậu cần to lớn để làm nơi xuất phát trực tiếp cho các đạo quân xâm lược.

Lúc này, sau khi Lý Nhân Tông lên ngôi, Lý Thường Kiệt được giữ chức Đôn quốc thái úy, Đại tướng quân, Đại tư đồ, tước hiệu Thượng phụ công. Với cương vị như Tể tướng, ông nắm toàn quyền cả văn lẫn võ. Điều đó cũng có nghĩa là phải gánh vác nặng nề và chịu trách nhiệm to lớn đối với giang sơn xã tắc. Ông nhận lấy sứ mệnh thiêng liêng, trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược.

Khi quân Tống lộ rõ âm mưu, ông là người đầu tiên đưa đại quân đánh sang đất phương Bắc để phá vỡ âm mưu của giặc. Sách Việt điện uy linh chép rằng Lý Thường Kiệt nghe tin người Tống muốn đem quân xuống rình nước ta để gây binh. Ông lập tức tâu vua: “Ngồi im đợi giặc, không bằng đem quân ra trước để chặn thế mạnh của giặc”. Kế sách “Tiên phát chế nhân” này được triều đình ủng hộ, Lý Thường Kiệt dẫn binh sang đất đối phương đánh các thành địch.

Lý Thường Kiệt: Khí phách Tuyên ngôn Độc lập ảnh 1

Lý Thường Kiệt chỉ huy 40.000 quân thủy cùng voi chiến đi đường biển từ châu Vĩnh An (Quảng Ninh) đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm; Tông Đản vây châu Ung. Ngày 30-12-1075, quân Đại Việt tiến chiếm thành Khâm Châu, bắt toàn bộ quan quân nhà Tống. Ba ngày sau, 2-1-1076, Liêm Châu cũng thất thủ.

Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất hoang mang, lo ngại, các tướng ở địa phương bối rối. Vua Tống cách chức Lưu Di và sai Thạch Giám thay, coi Quế Châu và làm kinh lược sứ Quảng Tây.

Trên các mặt trận, quân Đại Việt hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho quân ở Khâm và Liêm Châu tiến lên phía Bắc chặn quân tiếp viện nhà Tống. Hẹn ngày 18-1-1076, hai đạo quân sẽ cùng hội lại vây chặt lấy Ung Châu. Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với 2.800 quân cương quyết cố thủ. Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay thuộc thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận.

Tri châu Ung là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành, trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy. Ngày thứ 42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô Giám tự thiêu để khỏi rơi vào tay quân Đại Việt. Người trong thành không chịu hàng, nên bị giết hết hơn 58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 100.000, tuy nhiên quân Đại Việt cũng tổn thất đến 10.000 người và nhiều voi chiến.

Lý Thường Kiệt làm cỏ xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc lấy Tân Châu. Viên quan coi Tân Châu, nghe thấy quân Đại Việt kéo gần đến thành, liền bỏ thành chạy trốn. Mục tiêu hoàn thành, Lý Thường Kiệt cho rút quân về. Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về nước. Nhà Lý cho những người phương Bắc đó vào khai phá vùng Hoan - Ái thuộc Thanh Hóa - Nghệ An hiện nay.

Danh tướng dũng mãnh, chiến công lẫy lừng

Tháng 3-1076, nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hẹn với quân Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp không dám tiến vào Đại Việt. Quân Tống viễn chinh lên đến 10 vạn quân, một vạn ngựa và hai mươi vạn dân phu, khí thế rất mạnh mẽ, nhất là kỵ binh. Nhưng quân Tống muốn phát huy kỵ binh phải làm sao qua khỏi vùng hiểm trở, tới chỗ bằng, ngựa mới tung hoành được.

Trong khi đó, tuyến phòng thủ của quân Đại Việt, Lý Thường Kiệt dựa vào sông núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu. Từ trại Vĩnh Bình vào châu Lạng, phải qua các dãy núi rậm, hiểm trở (từ tỉnh Lạng Sơn đến Đồng Mô ngày nay). Rồi lại phải qua dãy núi lèn, đá đứng như tường, ở giữa có đường đi rất hiểm: đó là ải Giáp Khẩu (tức là ải Chi Lăng), ở phía Bắc huyện Hữu Lũng thuộc Lạng Sơn ngày nay.

Quân Tống tràn xuống, theo đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh, tới phía Tây bờ sông Phú Lương; trong khi đó, một cánh quân tách ra, vòng sang phía Đông đánh bọc hậu quân Nam ở Giáp Khẩu (Chi Lăng) và thẳng tới sông Cầu. Hoàng đế Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, lập chiến lũy sông Như Nguyệt để chặn quân Tống. Sông Cầu từ địa phận Cao Bằng chảy đến Lục Đầu, hợp với sông Bạch Đằng. Từ Lục Đầu ra đến biển, là một cái hào tự nhiên sâu và rộng, che chở cho đồng bằng nước Việt để chống lại tất cả mọi cuộc ngoại xâm đường bộ từ Lưỡng Quảng kéo vào. 

Lý Thường Kiệt đem chủ lực chặn con đường từ trại Vĩnh Bình đến sông Nam Định (sông Cầu) bằng cách đặt những doanh đồn và phục binh ở hai ải tiếp nhau: ải Quyết Lý ở phía Bắc châu Quang Lang và ải Giáp Khẩu (Chi Lăng) ở phía Nam châu ấy. Nếu hai phòng tuyến ấy bị tan, thì phải cố thủ ở phòng tuyến thứ ba, tức là Nam ngạn sông Nam Định. Để cản quân Tống qua sông, Lý Thường Kiệt sai đắp đê Nam Ngạc cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm giậu, dày đến mấy từng. Thành đất lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, đã đổi thế sông Nam Định và bờ Nam ngạn ra một dãy thành hào, che chở cả vùng đồng bằng Giao Chỉ. 

Cùng lúc đó thủy binh Tống do Hòa Mân và Dương Tùng Tiểu chỉ huy đã bị thủy quân Đại Việt do Lý Kế Nguyên điều động, chặn đánh ngoài khơi lối vào Vĩnh An. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Đại Việt tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống.

Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh thần quân Nam chiến đấu. Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Đại Việt lại tập kích, doanh trại của phó tướng Triệu Tiết bị phá, quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần.

Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế bí, mà người Việt bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất, nên sai sứ sang “nghị hòa” để quân Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân. Sách Việt Sử kỷ yếu của Trần Xuân Sinh dẫn cổ sử nói về nội tình của nhà Tống về sự kiện này: Triều thần nhà Tống cho rằng “Cũng may mà lúc đó địch lại xin giảng hòa, không thì chưa biết làm thế nào”. 

Dưới thời Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt đã tham gia cuộc tấn công Chiêm Thành năm 1069. Ông cầm quân truy đuổi và bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Dưới thời Lý Nhân Tông, ngoài việc cầm quân đánh Tống, ông còn tiến công Chiêm Thành vào năm 1075. Những năm cuối đời, Lý Thường Kiệt vẫn xông pha cầm quân đi đánh Lý Giác ở Diễn Châu (1103). Năm 1104, vua Chiêm Thành là Chế Ma Na đem quân đánh và lấy lại 3 châu mà vua Chế Củ đã cắt cho Đại Việt. Lúc ấy, Lý Thường Kiệt một lần nữa kéo quân đi đánh, phá tan quân Chiêm, buộc Chế Ma Na lại nộp phần đất ấy cho Đại Việt.

Vì có công, Lý Thường Kiệt được ban “quốc tính”, mang họ vua (do đó có họ tên là Lý Thường Kiệt), và phong tước Khai quốc công. Sau lại có công nữa, ông được phong làm Thái úy. Ông là vị thái giám đầu tiên của nền quân chủ nước nhà được ghi nhận có công đức, đóng góp lớn cho đất nước. Non sông sạch bóng quân thù. Lúc này vua mới 12 tuổi. Lý Thường Kiệt lại tiếp tục gánh trách nhiệm lớn của triều đình trong công cuộc xây dựng đất nước, chăm lo đời sống nhân dân.

Ông đã cho tu bổ đê điều, đường sá, đình chùa hư hỏng trong chiến tranh và tiến hành nhiều biện pháp nhằm cải tổ bộ máy hành chính trong toàn quốc. Tháng 6 năm Ất Dậu (1105), Thái úy Lý Thường Kiệt mất, thọ 86 tuổi. Lý Nhân Tông ban cho ông chức Nhập nội điện đô tri kiểm hiệu thái úy bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công.

“Thân dân” và “tâm công”, quyết không để mất đất

Sau khi quân Tống lộ rõ âm mưu xâm lược, trong cuộc Bắc phạt từ 27-10-1075 đến 1-3-1076, Lý Thường Kiệt là một trong những nhà quân sự đầu tiên đã sử dụng thành công kế sách “mưu phạt tâm công”. Ông viết Phạt Tống lộ bố văn, nêu rõ lý do cuộc hành quân của mình là chỉ để nhằm đập tan quá trình chuẩn bị xâm lược của nhà Tống. Theo một số tài liệu, Lý Thường Kiệt là người viết hịch, viết văn Lộ bố đầu tiên của Việt Nam. Điều này làm cho vai trò của Lý Thường Kiệt trở nên rất quan trọng trong lịch sử văn học.

Bài Lộ bố vừa thể hiện rõ tư tưởng kiên quyết bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của Lý Thường Kiệt, vừa nêu cao tư tưởng nhân nghĩa ngay cả đối với dân Tống khi ông tuyên bố rằng, cuộc chiến đấu của ông là nhằm chống lại triều đình nhà Tống chứ không phải nhằm vào dân Tống và nhằm chiếm giữ đất đai nhà Tống. Giữ vững chủ quyền lãnh thổ là mục đích chiến đấu, nhưng bảo vệ quyền lợi của nhân dân, bất kể đó là dân Việt hay dân Tống, khỏi đau khổ, là một tư tưởng nhân nghĩa hết sức cao đẹp của Lý Thường Kiệt. Điều này thể hiện quan điểm “thân dân” và chiến thuật “tâm công” của ông.

Theo bia thần phổ Lý Thường Kiệt: “Dân Tống thấy lời tuyên cáo, đều vui mừng, đem trâu rượu khao quân ta. Từ đó, mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt đàng xa, thì nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam; rồi cùng nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy thanh quân ta lan khắp”. Bia chùa Linh Xứng đã ghi nhận công lao Lý Thường Kiệt: “Làm việc thì siêng năng, điều khiển dân thì đôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Tài giỏi mà không khoe khoang. Phép tắc như vậy là cái gốc trị nước, cái thuật yêu dân. Sự tốt đẹp đều ở đấy cả”.

Lịch sử chống ngoại xâm nước ta cũng ghi nhận tinh thần bất khuất, quyết chí không để mất một tấc đất của ông cha: Tháng 3-1077, nhà Tống rút quân về nước, quân Tống rút đến đâu, quân Đại Việt theo sau lấy đất lại đến đó. Nhưng khi đến Cao Bằng, quân Tống không chịu rút quân nữa mà chiếm giữ luôn 5 châu là Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô Mậu, Môn và Quang Lang. Trước tình hình đó, nhà Lý buộc phải dùng vũ lực ép quân Tống phải trả lại 5 châu đó vào năm 1079. Dù bị đánh bại liên tiếp nhưng quân Tống vẫn cố chiếm giữ vùng đất ven biên giới với lý do một số tù trưởng trước khi nổ ra chiến tranh năm 1075 đã nộp cho nhà Tống để xin quy phục.

Không muốn tiếp tục phải sử dụng vũ lực với nhà Tống. Lý Thường Kiệt quyết chọn con đường ngoại giao để đòi những phần lãnh thổ còn lại. Trong triều lúc đó có Lê Văn Thịnh là vị trạng nguyên đỗ đầu trong khoa thi nho học đầu tiên của Đại Việt. Lại là người có tài đối đáp hơn người, rất thích hợp dẫn đầu phái bộ nước ta sang nhà Tống thương thuyết. Tháng 6 năm Giáp Tý, Lê Văn Thịnh sang nhà Tống đòi lại những đất ấy. Cuộc họp diễn ra vô cùng căng thẳng, nhiều lập luận vô cùng đanh thép được đưa ra. Dù đuối lý nhưng phái viên nhà Tống vẫn cố cãi cùn rằng: "Những đất mà quân ta chiếm thì đáng trả cho Giao Chỉ. Còn những đất mà các người coi giữ mang nộp để theo ta thì khó mà trả lại". 

Lê Văn Thịnh liền đáp lại: Đất thì có chủ. Các viên quan coi giữ mang nộp mà trốn đi thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Việc chủ giao cho mà tự lấy trộm đã không thể tha thứ, mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật cũng không cho phép. Huống chi nay chúng lại mang đất trộm dâng để làm nhơ bẩn sách sổ nhà vua (triều Tống)!". Nghe vậy, dù không muốn, Tống Thần Tông vẫn phải trả lại cho Đại Việt 6 huyện đang chiếm giữ trái phép. 

***

Cuộc kháng chiến của quân dân ta chống Tống trên đất Tống cũng như trận chiến sông Như Nguyệt thể hiện bản lĩnh dân tộc sâu sắc qua cách đánh và chiến thuật “dân tâm” của Lý Thường Kiệt. Khí thế giặc rất mạnh, tưởng chừng như có lúc phòng tuyến Như Nguyệt bị vỡ. Sách Việt điện uy linh viết: Muốn cổ vũ binh sĩ, Lý Thường Kiệt sai người nấp trong đền Trương Hát ở bờ Nam cửa sông Như Nguyệt, đọc vang bài thơ:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư.

Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư

Như hà nghịch lộ lai xâm phạm!

Nhĩ đẳng hành khan thủ bại hư”.

Sách chép tiếp: “Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ táng đảm, không đánh đã tan”. Bài thơ đã được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta. Bài thơ này gắn bó chặt chẽ với thời Lý và với đại danh tướng Lý Thường Kiệt; đã xuất hiện đúng thời điểm lịch sử quan trọng của cuộc chiến đấu chống xâm lược Tống được ghi vào chính sử, và được lưu truyền rộng rãi trong đời sống tinh thần người Việt cả ngàn năm nay.

Tin cùng chuyên mục