AI không còn hàn lâm

Đầu năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) đến năm 2030 với hy vọng tạo ra cú hích cho sự phát triển AI của Việt Nam. Trong thời gian dịch bệnh diễn biến phức tạp, AI đã đóng vai trò quan trọng, giúp giảm gánh nặng cho đội ngũ y tế, lực lượng phòng chống dịch Covid-19 thông qua các ứng dụng thiết thực.
Hệ thống Smart VMS ứng dụng AI có khả năng cảnh báo tụ tập đám đông
Hệ thống Smart VMS ứng dụng AI có khả năng cảnh báo tụ tập đám đông

Tạo nhiều thành tựu mới

Theo Thứ trưởng Bộ KH-CN Bùi Thế Duy, trước đây, AI được xếp là ngành khoa học hàn lâm, dành cho những nhà toán học và công nghệ thông tin xuất sắc, chưa có nhiều ứng dụng. Nhưng gần đây, với sự hội tụ của nhiều công nghệ như dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud), học máy sâu (Deep Learning)… công nghệ và ứng dụng AI gần với cuộc sống hơn, tạo nhiều thành tựu mới làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống.

Thứ trưởng Bùi Thế Duy (hiện là Tổ trưởng Tổ Thông tin đáp ứng nhanh, Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch Covid-19) cho biết, nhiều doanh nghiệp, tổ chức đã nhanh chóng vào cuộc, có sản phẩm ứng dụng công nghệ AI được đánh giá là hỗ trợ đắc lực cho đội ngũ phòng chống dịch. Điển hình là ứng dụng AI trong việc truy vết người tiếp xúc giúp đội ngũ y tế điều tra lịch trình, lấy thông tin dịch tễ… AI cũng giúp số hóa tờ khai, phiếu điều tra dịch tễ và đưa lên hệ thống. Khi dịch bệnh diễn biến phức tạp hơn, AI hiện hữu ngay trong các khu cách ly, bệnh viện với robot tự động giúp khử khuẩn, đưa thuốc cho người bệnh.

Tại TPHCM, ứng dụng AI trong công tác phòng chống dịch Covid-19 là không nhỏ. Như Sở TT-TT triển khai callbot ứng dụng AI cho tổng đài 1022 để gia tăng kết nối khi người dân gọi đến tổng đài nhờ hỗ trợ, giải đáp những vấn đề liên quan đến Covid-19. Hay hàng loạt sản phẩm của các công ty từ Công viên phần mềm Quang Trung đã đưa AI vào ứng dụng, như Hệ thống quản lý camera thông minh của Công ty Homa giám sát việc tụ tập đông người, cảnh báo ở khu vực không được phép.

Nhóm nghiên cứu của PGS-TS Phạm Xuân Đà (Khoa Y, ĐH Quốc gia TPHCM) đã giới thiệu giải pháp “Công nghệ IoT kết hợp AI nhằm kiểm soát đồng thời nhóm người tại khu cách ly, bệnh viện, khu công nghiệp, cửa khẩu, khu tập trung đông người trong phòng chống dịch Covid-19”. Hệ thống này được thiết kế dưới dạng cabin đặt ở nơi mọi người phải đi qua như cổng chung cư, cổng bệnh viện, cửa ra vào cao ốc văn phòng, khu vực cách ly, khu vui chơi giải trí. Cabin trang bị hệ thống giúp nhận diện khuôn mặt và kiểm tra thân nhiệt nhiều người cùng lúc.

Bài toán nhân lực, dữ liệu và liên kết

Dù ứng dụng AI là xu thế tất yếu nhưng Việt Nam đang đối mặt khá nhiều thách thức để phát triển lĩnh vực này. TS Võ Sỹ Nam, Viện Nghiên cứu dữ liệu lớn Vingroup (VinBigData) cho rằng, chất lượng dữ liệu là then chốt trong nghiên cứu AI bởi 80% công việc hiện nay là xử lý dữ liệu, do vậy bảo đảm chất lượng dữ liệu là rất quan trọng trong bất kỳ ứng dụng nào của AI. Còn theo GS Vũ Hà Văn, Giám đốc Khoa học VinBigData, dữ liệu là yếu tố ảnh hưởng đến ứng dụng AI trong thực tế. Dữ liệu tốt phải đủ lớn, được gắn nhãn, có tính đại diện, tiếp cận được, đáng tin cậy và sạch. Dữ liệu và nguồn nhân lực là hai điều kiện tiên quyết để làm được các sản phẩm AI “made in Việt Nam”.

Một số ý kiến cho rằng, có 4 vấn đề cần chú trọng nếu muốn phát triển AI: Nhân sự chất lượng, đủ số lượng; đội ngũ nghiên cứu chuyên sâu; đào tạo thế hệ trẻ về AI để tiếp nối; kết nối giữa nghiên cứu và ứng dụng, tạo ra được sản phẩm. Chia sẻ thêm về vấn đề này, PGS-TS Vũ Hải Quân, Giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM, cho biết: “Phần lớn kiến thức công nghệ thông tin ở ĐH tập trung phục vụ mảng gia công phần mềm, chỉ một phần rất nhỏ các môn học liên quan đến AI… Do đó, chúng ta cần cải tổ chương trình đào tạo để thích ứng với làn sóng công nghệ cao trên thế giới, cụ thể là thành lập khoa AI hay các bộ môn về Thị giác máy tính, Xử lý ngôn ngữ nói, Xử lý ngôn ngữ tự nhiên, Big Data, Robotics…”.

Hiện Bộ KH-CN đã có kế hoạch xây dựng, bổ sung các văn bản pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới AI; triển khai mạnh mẽ hình thức hợp tác công - tư, đồng tài trợ cho các trung tâm đào tạo, trung tâm nghiên cứu phát triển và trung tâm ứng dụng AI; hình thành các nhóm nghiên cứu trọng điểm về AI và khoa học dữ liệu ở một số trường đại học, viện nghiên cứu công lập. Cùng với đó, sớm đầu tư cơ sở vật chất cho phòng thí nghiệm trọng điểm về AI và khoa học dữ liệu ở trường đại học, viện nghiên cứu công lập; xây dựng một số trung tâm đổi mới sáng tạo AI, hình thành một số thương hiệu của Việt Nam về AI trên thế giới… kỳ vọng AI được ứng dụng nhiều hơn trong đời sống xã hội.

Tin cùng chuyên mục