Quan trọng nhất là đổi mới của giáo viên

Chiều 3-5, Bộ GD-ĐT đã công bố kết quả thực nghiệm và khảo sát ý kiến giáo viên, cán bộ quản lý về dự thảo các chương trình (CT) môn học, hoạt động giáo dục trong CT giáo dục phổ thông (GDPT) mới. Việc thực nghiệm CT lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam nhưng qua thực nghiệm cũng đã cho thấy còn nhiều vấn đề mà CT GDPT mới phải tiếp tục điều chỉnh.
Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên CT GDPT mới, mục đích thực nghiệm nhằm đánh giá tác động và kiểm nghiệm mức độ phù hợp, tính khả thi của dự thảo các CT môn học trong CT GDPT mới đối với cơ sở GDPT; cung cấp thông tin góp phần hoàn thiện dự thảo các CT môn học để Hội đồng quốc gia thẩm định CT môn học tiến hành thẩm định. Nội dung bài dạy thực nghiệm có hai loại: bài học là nội dung mới, không có trong CT hiện hành; bài học là nội dung có trong CT, sách giáo khoa hiện hành nhưng được thực hiện theo phương pháp dạy học mới. Phạm vi thực nghiệm CT tại một số trường phổ thông thuộc 6 tỉnh, thành: Lào Cai, Hà Nội, Bình Định, Lâm Đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ. Bên cạnh đó còn khảo sát ý kiến giáo viên, cán bộ quản lý các trường tham gia thực nghiệm về 6 tiêu chí đánh giá CT môn học; khảo sát thông qua online và phỏng vấn sâu. CT đã dạy thực nghiệm các CT môn học tổng cộng 372 tiết ở cả 3 cấp học. Mỗi bài được dạy từ 1 đến 2 lượt. Số giáo viên thực hiện các bài học thực nghiệm là 528 giáo viên tiểu học, 602 giáo viên THCS và 352 giáo viên THPT, tổng cộng 1.482 người. 

GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng, phần lớn các tiết dạy thực nghiệm diễn ra sôi nổi, mới mẻ. Nhiều giáo viên đã vận dụng tốt phương pháp tổ chức hoạt động, trao quyền chủ động cho học sinh, tạo tâm thế hào hứng và các hoạt động học tập hiệu quả ở học sinh. Nhiều giáo viên đã mạnh dạn thay đổi ví dụ được gợi ý trong tài liệu thực nghiệm cho phù hợp với điều kiện của địa phương. Một số giáo viên còn linh hoạt thay đổi cách bố trí lớp học, không gian học, dùng hình thức trò chơi để học sinh học một cách thoải mái, hứng thú. Các hình thức thảo luận nhóm, thảo luận cặp đôi… được sử dụng khá hợp lý và hiệu quả. Tuy nhiên, một số giáo viên vẫn chưa thay đổi được thói quen truyền thụ kiến thức đơn thuần nên chưa tạo ra được những giờ học hiệu quả, trong đó mỗi học sinh đều được hoạt động để tự mình tìm tòi kiến thức, rèn luyện kỹ năng và vận dụng những điều đã học để phát hiện, giải quyết các vấn đề trong cuộc sống phù hợp với lứa tuổi. Một số giáo viên thiên về áp dụng phương pháp phát vấn, chủ yếu là hỏi đáp giữa giáo viên với một vài học sinh. Một số giáo viên tuy có tổ chức cho học sinh làm việc nhóm nhưng cách làm việc còn mang tính hình thức, chưa tạo điều kiện để mỗi học sinh trong nhóm hoạt động, tự tạo ra sản phẩm của mình, đóng góp vào kết quả làm việc chung. Thực tế cho thấy giờ dạy chỉ thành công khi giáo viên nắm vững nội dung CT và vận dụng được phương pháp dạy học mới để tổ chức hoạt động học tập của học sinh. Nếu giáo viên nắm chắc nội dung bài học và có phương pháp tổ chức hoạt động tốt, sẽ khơi gợi được hứng thú ở học sinh, lôi cuốn các em tích cực tham gia hoạt động dù đó là một tiết học với những nội dung khó. Trong quá trình thực nghiệm, có trường hợp giáo viên dạy lần đầu không thành công, nhưng sau khi được tổ chuyên môn góp ý, hướng dẫn giáo viên thiết kế lại các hoạt động học tập, thì ở lượt dạy thứ 2, giờ dạy rất thành công. 

Bên cạnh vấn đề phương pháp dạy của giáo viên thì điều băn khoăn đáng chú ý sau khi thực nghiệm, đó là còn nhiều nội dung CT khó, thiên về truyền thụ kiến thức, dẫn đến quá tải. Ban soạn thảo cho rằng qua thực nghiệm đã cho thấy một số yêu cầu cần đạt còn cao so với trình độ của học sinh; nội dung một số bài thực nghiệm tương đối khó; một số bài vẫn còn nặng về trang bị kiến thức; dung lượng của một số bài chưa phù hợp với thời lượng dạy học. Việc bố trí nhiều đơn vị kiến thức trong một bài học không tạo điều kiện cho học sinh thực hiện các hoạt động khám phá, luyện tập và vận dụng kiến thức vào đời sống. Đây là những hạn chế, bất cập cần được mỗi nhóm tác giả CT môn học nghiêm túc xem xét và kiên quyết khắc phục trong thời gian tới. 

Thực tế, ở những vùng mà học sinh chủ động tìm tòi kiến thức để học sẽ dễ dàng hơn trong học CT mới. Nhưng ở những địa bàn khó khăn, nơi mà cả giáo viên, học sinh đều quen với cách dạy và học kiểu truyền thụ kiến thức thì sẽ rất khó khăn. Dẫn chứng ở một số trường thực nghiệm ở Lào Cai cho thấy, nếu địa phương nào chủ động đổi mới phương pháp dạy học thì tiếp nhận CT sẽ dễ dàng hơn. Rõ ràng, nội dung CT cũng quan trọng, nhưng quan trọng hơn là phương pháp dạy. Nếu phương pháp tốt thì nội dung chương trình không còn là vấn đề. Tiết học thành công là do thầy cô nắm vững nội dung CT môn học, có ý thức đổi mới phương pháp, tiết học đủ thời lượng thời gian cũng như kiến thức không quá khó, quá tải đối với học sinh. Học trò thì rất hồn nhiên, tiếp cận tất cả những gì mà thầy cô truyền đạt, vì vậy hay - dở là phụ thuộc thầy cô. Nếu thầy cô có phương pháp tốt thì học sinh hứng thú học.  

Còn quá nhiều vấn đề đặt ra sau khi thực nghiệm CT GDPT mới, trong đó có vấn đề đổi mới phương pháp dạy của giáo viên; hoàn thiện cơ sở vật chất để đáp ứng yêu cầu của CT GDPT mới; điều chỉnh những nội dung được cho là khó, quá tải đối với học sinh để hoàn thiện, công bố CT GDPT mới. Những vấn đề này nếu không được chuẩn bị chu đáo thì CT GDPT không thể triển khai thành công. Trong khi đó, thời gian để triển khai CT mới không còn nhiều, vì chậm nhất đến năm học 2020-2021 đã phải triển khai dạy ở tiểu học, trong khi sau vấn đề CT thì vấn đề viết sách giáo khoa, thực nghiệm sách giáo khoa đến nay vẫn chưa làm. Vì vậy, Bộ GD-ĐT, ban soạn thảo CT GDPT mới sẽ phải “tăng tốc” hơn trong việc xây dựng kế hoạch, nội dung, phương pháp tập huấn giáo viên, cán bộ quản lý thật chu đáo, hiệu quả. Bởi như thừa nhận của GS Nguyễn Minh Thuyết, quan trọng nhất là đổi mới phương pháp của giáo viên, nếu giáo viên không thực sự tâm huyết đổi mới thì đổi mới sẽ không thành công.

Tin cùng chuyên mục