Mối giao tình giữa ba soạn giả cải lương

Trong những ngày kỷ niệm 100 năm sân khấu cải lương, không thể không nhắc đến 3 soạn giả từ chiến khu đã đóng góp cho sân khấu cải lương những vở diễn kinh điển đến ngày hôm nay.
Soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng
Soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng
 Và trong 3 soạn giả đó, người anh đầu đàn chính là nhà thơ - soạn giả Kiên Giang, người đã có công góp phần tạo nên liên danh Hà Triều - Hoa Phượng bằng tấm lòng “tình người kháng chiến” của mình.
Căn nhà khởi nghiệp
Đó là căn nhà nhỏ ở xóm đề pô Chợ Quán, gần cầu Chữ Y (nay là đường Phan Văn Trị, quận 5). Đây là nơi của nhà thơ, soạn giả kiêm ký giả kịch trường Kiên Giang (Hà Huy Hà) tá túc khi lên Sài Gòn năm 1956. Kiên Giang tên thật là Trương Khương Trinh, sinh năm 1929 tại Rạch Giá. Năm 17 tuổi, khi còn là học sinh trung học, chàng trai Trương Khương Trinh đã hạnh ngộ với nhà thơ Nguyễn Bính khi nhà thơ này “hành phương Nam”. Có tập tễnh làm thơ nên Trương Khương Trinh đã theo Nguyễn Bính - người thầy cũng là người bạn - để “nâng cao tay nghề làm thơ”. Vì vậy, thơ của Kiên Giang vẫn có ảnh hưởng nhất định thơ của Nguyễn Bính từ lúc “Soi gương nước giếng chải đầu ngón tay”.
Một thời gian ngắn, Nguyễn Bính và Kiên Giang chia tay nhau, mỗi người một nẻo đường vào chiến khu. Kiên Giang vào Khu 8, tham gia kháng chiến, có lúc làm trưởng đoàn văn nghệ thiếu nhi. Sau khi hòa bình lập lại, Kiên Giang lên Sài Gòn lập nghiệp, từ công việc sửa morat cho Báo Tiếng Chuông, sau đó trở thành ký giả kịch trường cho một số tờ báo, soạn giả cải lương với những vở đầu tay như Người đẹp bán tơ (1956), Con đò Thủ Thiêm (1957)... được “sinh” ra từ căn nhà ở xóm đề pô Chợ Quán. Tôi đã có dịp đến ngôi nhà này trước năm 1975 và luôn nhớ hình ảnh 2 câu thơ dán trước cửa nhà: “Những phường bạc nghĩa xin đừng đến/Hãy để thềm ta xanh sắc rêu” mà nhà thơ Kiên Giang cho biết là của thi sĩ Nguyễn Bính - người thầy của ông.
Tình người kháng chiến
Sau năm 1954, một số cán bộ ngành văn hóa trong kháng chiến trở về thành để tiếp tục con đường đi của mình. Những người kháng chiến như Sơn Nam, Kiên Giang, Nguyên Hùng… phải tự lực cánh sinh tiếp tục chiến đấu bằng con đường văn nghệ. 
Năm 1955, chàng trai Đặng Ngươn Chúc (sinh năm 1931), đồng hương với Kiên Giang lên Sài Gòn tìm và tá túc ở nhà của nhà thơ Kiên Giang. Nhà thơ Kiên Giang biết Chúc khi ông làm trưởng đoàn văn nghệ thiếu nhi trong vùng kháng chiến mà lúc đó Chúc là nhạc công. Thấy Chúc có tuồng chữ đẹp, rõ ràng, nhà thơ Kiên Giang tìm cho Chúc công việc là chép thơ và bản thảo kịch bản cải lương. Với sự hiểu biết văn nghệ nhất định, Chúc tập viết bài bản ca lẻ gồm ba nam, sáu bắc với đề tài lịch sử. Cuộc sống của Chúc tương đối ổn định vì có chút ít tiếng tăm.
Riêng chàng trai Lương Kế Nghiệp (sinh năm 1933, ở An Giang) cũng chân ướt chân ráo lên Sài Gòn vào thời gian ấy và tìm được việc làm là thư ký trong Viện Hối đoái, cuộc sống cũng chìm nổi “ba cọc ba đồng”. Số phận run rủi, Nghiệp gặp lại người bạn thân trong kháng chiến là Chúc. Nghiệp được Chúc giới thiệu với Kiên Giang và cả hai đều được nhà thơ Kiên Giang cho tá túc tại căn nhà xóm đề pô. Với những người bạn kháng chiến ngày xưa, nhà thơ Kiên Giang đã mở hết lòng mình, cho họ chỗ ở ổn định và cuộc sống trên vùng đất mới. 
Liên danh Hà Triều - Hoa Phượng
Lúc này, nhà thơ Kiên Giang đang là ký giả kịch trường cho một số tờ báo với bút hiệu là Hà Huy Hà nên thường xuyên được các gánh hát mời đi xem tuồng mới khai trương. Vì thế Chúc và Nghiệp thường được Kiên Giang đưa cho vé mời cùng đi xem hát. Một hôm, Kiên Giang hỏi hai người bạn: “Có viết được tuồng không?”. Chúc mặc dầu lúc ấy đã có chút tiếng tăm qua việc viết những bài ca lẻ cải lương nhưng vẫn chần chừ chưa dám trả lời, thì Nghiệp nói ngay một cách tự tin: “Được, mà có thể hay hơn”. Và hai người bạn bắt đầu cùng nhau viết vở tuồng đầu tay Vì quê hương.
Lương Kế Nghiệp lấy biệt hiệu là Hoa Phượng để nhớ tuổi học trò. Có lẽ bút hiệu này do Nghiệp thấy tướng tá mình vẫn còn giống học trò, hay bút hiệu đã vận vào Nghiệp, vì lúc nào ông cũng mang dáng dấp một chàng thư sinh gầy gò, yếu ớt. Còn Đặng Ngươn Chúc lấy bút hiệu là Hà Triều, tên của hai người thân. Hà là tên của một người bạn gái cùng lớp với Chúc, Triều là tên em trai của Thu Hà - chơi rất thân với Chúc. 
Vở tuồng Vì quê hương được đoàn Việt Hùng - Minh Chí dựng tại rạp Phú Nhuận vào năm 1956. Theo lời kể của Kiên Giang, liên danh Hà Triều - Hoa Phượng lần đầu tiên xuất hiện như đèn le lói. Vốn dị ứng với “dân trên bờ” (không phải là dân nghệ sĩ sân khấu) nên bầu doàn hát đã cho tập dượt qua loa và hát vào suất ban ngày. Lần đầu tiên xuất hiện xem như thất bại ê chề. Hà Triều buồn, Hoa Phượng thì hơi tức nhưng vẫn quyết tâm động viên bạn viết tiếp vở thứ hai mang tên Sau cơn lốc. Vở này cũng đi vào bánh xe đổ của vở trước, chỉ diễn một vài lần rồi thôi mà còn bị dân sân khấu gọi nhạo là “Sáu con cá lóc”. Phải biết là hai tác giả trẻ thất vọng cỡ nào.
Trong khoảng thời gian này, nhà thơ Kiên Giang là người phụ trách tìm kiếm tuồng tích cho đoàn cải lương Thúy Nga - Phước Trọng. Dù Hà Triều và Hoa Phượng đã 2 lần thất bại nhưng soạn giả Kiên Giang vẫn tin tưởng tài năng của hai bạn mình nên đã đặt hàng Hà Triều, Hoa Phượng viết tuồng cho đoàn này với vở Lối vào cung cấm. Kiên Giang đọc kịch bản thấy nội dung, văn chương rất tốt và đề nghị hai soạn giả chuyển sang hình thức tình cảm kiếm hiệp Phù Tang với tên mới Khi hoa anh đào nở, vai chính Tô Điền Sơn giao cho kép trẻ Thành Được. Vì vậy, sau vở khai trương Ngưu Lang Chức Nữ của soạn giả Kiên Giang, đoàn Thúy Nga - Phước Trọng dựng vở Khi hoa anh đào nở với màu sắc Nhật Bản. Theo soạn giả Kiên Giang, vở được tái diễn liên tục 4 tuần, đã gây chấn động kịch trường. 
Vở Khi hoa anh đào nở đã chắp đôi cánh cho Hà Triều - Hoa Phượng bay vào nghệ thuật cải lương, rồi sau đó là Nửa đời hương phấn, Tấm lòng của biển… Qua 10 năm (từ 1955 - 1965), liên danh Hà Triều - Hoa Phượng đã viết chung khoảng 50 kịch bản vở diễn. Từ những kịch bản đó, nhiều nghệ sĩ đã thành danh, đoạt giải Thanh Tâm - một giải thưởng cao quý thời đó, như: Tấn Tài, Thành Được, Thanh Sang, Bạch Tuyết, Ngọc Giàu, Lệ Thủy, Thanh Nguyệt, Phượng Liên, Mộng Tuyền, Bảo Quốc, Hùng Minh, Phương Bình, Bo Bo Hoàng…
Riêng soạn giả Kiên Giang, sau một loạt vở thành công đã đưa Thanh Nga đến giải Thanh Tâm qua Áo cưới trước cổng chùa, Phấn lá men rừng cũng như bài thơ tình nổi tiếng Hoa trắng thôi cài trên áo tím…  và phụ trách một chương trình phát thanh để phát triển dòng thơ yêu dân tộc, yêu nước…

Tin cùng chuyên mục